Từ phát hiện sự tồn tại của hàng loạt di tích tháp Chăm ở miền Trung của các nhà nghiên cứu người Pháp cách đây hơn 100 năm, nhiều tổ chức, cá nhân đã dày công nghiên cứu vật liệu và kỹ thuật xây dựng xây tháp Chăm từ những phương pháp và nguyên vật liệu đoán định tại chỗ. Thế nhưng cho đến nay, đã không kết quả đáng kể nào được ghi nhận.
Có dịp đi về phía Bắc của Ấn Độ, tình cờ tôi đã được sờ tận tay những viên “gạch Chăm” trên các di tích Phật giáo, Ấn Độ giáo rải rác khắp nơi trên đất nước này. Ở Bihar, cội nguồn của Phật giáo thế giới và là nơi lưu dấu cuộc đời Đức Phật, những phế tích Đại học Phật giáo Nalanda, Đại tháp Kesaria… còn gợi nhớ những toà tháp Chăm cổ ở khu vực miền Trung bằng những bức tường gạch tươi mới, dù dầm dãi mưa nắng đã hơn hai ngàn năm. Có một điểm chung nào trong cách chế tác vật liệu và phương pháp xây dựng giữa người thợ xây Ấn Độ trong quá khứ và các tiền nhân Chăm?
Đại tháp Kesaria tại Bihar. ảnh: Shamitha
Bí ẩn trăm năm
Năm 1885, nhà nghiên cứu M.C Paris người Pháp tình cờ tìm thấy Thánh địa Mỹ Sơn với 68 toà tháp gạch cổ nằm sâu trong khu rừng già thuộc khu vực thung lũng Hòn Đền, nay thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam. Cách đó không xa là tàn tích kinh thành Symhapura của Vương quốc Chămpa. Kết cấu đền tháp tại Mỹ Sơn cho biết, đây là một thánh địa để hành hương và là nơi hành lễ của tín đồ Ấn Độ giáo Chămpa trong quá khứ, trước khi được sáp nhập với Đại Việt. Sự “phát hiện” Mỹ Sơn đã cho các nhà khoa học một bức tranh hoàn chỉnh về xã hội Chămpa, đồng thời xác tín Ấn Độ giáo, Phật giáo từ Ấn Độ đã ảnh hưởng sâu sắc và chi phối đến mọi đời sống xã hội của vương quốc này.
Thế nhưng điều làm các nhà nghiên cứu ngạc nhiên, đó là những ngôi tháp Chăm được tiền nhân xây dựng tại đây, sau từ 600-1.000 năm xâm thực của rừng già, nhưng vẫn còn gần như nguyên vẹn, tươi nguyên… Đặc biệt những viên gạch xây tháp cùng với cách sắp xếp khít liền như được mài chập, tưởng như không sử dụng bất kỳ loại vôi vữa nào để gắn kết, khác xa với tập quán xây dựng tại địa phương. Tài liệu khảo cứu cho biết, cùng một khuôn khổ, nhưng viên gạch Chăm có trọng lượng chỉ bằng 60% so với gạch thường, nhưng độ bền chắc lại tỏ ra vượt trội.
Một nghiên cứu của một cán bộ ngành bảo tàng ở Quảng Nam mới đây cho rằng, không nên tách riêng vấn đề nghiên cứu vật liệu và phương pháp xây dựng “mài chập” khỏi tổng thể kết cấu chung. Ông Trần Công Hường – Giám đốc Ban Quản lý di tích Mỹ Sơn – nhận định, phải coi tháp Chăm là một thực thể sống. Mùa mưa hay nắng, những viên gạch Chăm xốp nhẹ, sẽ dẫn nước từ đất lên để nuôi sống tháp. Vì vậy viên gạch Chăm, dù qua hàng thế kỷ vẫn giữ được sự tươi mới và liên kết bền vững. Bằng chứng còn cho thấy ở nhóm tháp F, khi đổ sập gạch mất liên kết đã đổi màu và mủn nát hoàn toàn.
Nửa thế kỷ giải mã
Có thể nói ông Lê Văn Chỉnh – nguyên cán bộ Bảo tàng tỉnh Quảng Nam – là người đầu tiên thử nghiên cứu kết cấu của viên gạch Chăm. Ông đã đốt hết cuộc đời mình trong suốt gần 20 năm để giải mã bí ẩn của loại vật liệu này và cuối cùng ông để lại 2 mô hình tháp Po Glong Gơrai, Bằng An tại Nhà hàng Apsara, khu du lịch Suối Lương (Đà Nẵng) bằng loại “ gạch Chăm” mà ông tự sản xuất. Năm 2005 ông mất trong sự nghèo túng khi mọi việc vẫn còn dang dở. Tiếp đó nhiều cá nhân khác, cùng các cơ sở nghiên cứu vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng… cũng tổ chức sản xuất thử viên gạch Chăm. Năm 2008, động tác trả lại cụm tháp Khương Mỹ (Quảng Nam) của Viện Công nghệ vật liệu xây dựng vì không thể xử lý được vật liệu và phương pháp trùng tu tương đồng với nguyên bản, gần như đặt một dấu chấm hết cho công cuộc giải mã viên gạch Chăm, sau hơn nửa thế kỷ tìm kiếm.
Dù vậy, từ sau khi Mỹ Sơn được phát hiện, Viện Viễn Đông bác cổ (Pháp) và sau này là ngành bảo tàng các tỉnh miền Trung vẫn tiến hành công cuộc bảo tồn các cụm tháp Chăm rải rác dọc theo dải đất miền Trung. Từ Quảng Nam đến Bình Định, Nha Trang, Ninh Thuận… đã có nhiều phương pháp trùng tu được áp dụng. Và xót xa thay, mỗi cuộc tôn tạo là một thể nghiệm để lại những tháp Chăm biến dạng hoặc góp phần làm nguyên bản sót lại hư hại nhanh hơn! Đơn cử như phương pháp dùng nhựa cây bời lời, ô dước để kết nối các viên gạch sau khi gạch được mài khít với nhau áp dụng ở tháp Hoà Lai (Ninh Thuận), tháp Dương Long (Bình Định), tháp Nhạn ( Phú Yên) đã lưu giữ nước, gây rêu mốc xanh lè, làm mủn lớp mặt của thân tháp… Ở di tích Mỹ Sơn, Kiến trúc sư Kazic trong thập kỷ 80, thế kỷ trước đã chống sập các di tích bằng những mảng tường ximăng, hoặc dùng phương pháp liên kết hai viên gạch bằng cách khoan lỗ ở giữa chúng rồi đổ xi măng và úp hai viên vào nhau. Phương pháp này đã giữ được di tích đứng vững, nhưng chất kiềm hoà tan trôi ra, kết tủa trên mặt gạch gây hại cho các mảng tường nguyên gốc.
Ximăng và “gạch Chăm” giả cầy huỷ hoại tháp Dương Long (Bình Định). Anh: Trung Hiếu
Bihar – vạn dặm xa
Chuyến đi của tôi về phía Bắc Ấn Độ là một tour nghiên cứu hàng năm dành cho tất cả các sinh viên nhận học bổng du học ngắn, dài hạn của Chính phủ Ấn Độ. Những chuyến đi này nhằm giúp sinh viên mở rộng kiến thức văn hóa của vùng đất. Vì vậy cả một chương trình di chuyển hơn nửa tháng, được thiết kế thăm các di tích lịch sử từ thủ đô New Delhi qua thành phố Angra thuộc bang Uttar Pradesh. Riêng bang Bihar là địa danh tôi khao khát được tới từ ngày đặt chân đến học ở Ấn Độ thì lại không được nhắc tới. Với người dân Ấn Độ thì bang Bihar có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì có sông Hằng chảy qua thành phố Varanasi-địa chỉ mơ ước được đến lần cuối trong đời của một tín đồ Ấn giáo.
Còn với người Phật tử thì Bihar là vùng đất nguồn cội thiêng liêng của Phật giáo, ẩn chứa toàn bộ cuộc đời đức Phật… Và hơn thế, ở đó còn có những kiến trúc tôn giáo được xây dựng cách đây hơn 2.000 năm và hầu hết đều bằng gạch. Theo sử sách Ấn Độ cho biết, Vương triều Chămpa, trong quá khứ cũng là một trong những địa chỉ chịu ảnh hưởng Ấn Độ giáo, Phật giáo do giới tăng lữ bang Tamil Nadu, Andra Pradesh-Ấn Độ mang đến từ thế kỷ 10.
Từ thành phố Angra đi đến các thánh tích Phật giáo ở Bihar là quảng đường khá xa. Vì vậy nói khó lắm, người trưởng đoàn mới đồng ý và nhờ một người bạn đưa tôi bằng ô tô đến phế tích đại tháp Kesariya là nơi gần nhất. Đây là ngôi tháp tưởng niệm những ngày cuối cùng của Đức Phật Thích Ca, được Vua Chacravarty xây vào thế kỷ thứ 5 và hiện vẫn được coi là ngôi tháp gạch cổ cao nhất thế giới. Vật vã vượt qua một quãng đường xa để ngắm ngôi đại tháp trong một chiều chạng vạng, thật dễ để lại trong tâm tưởng người du khách nhiều cảm khái. Tháp đã thấp hơn nhiều so với nguyên gốc, do một trận động đất. Đỉnh tháp đổ sập, gạch, đá vương vãi quanh chân tháp. Trong khi Bồ đề đạo tràng, Đại học Phật giáo Nalanda, ngọn Linh Thứu – những di tích có liên quan đến cuộc đời Đức Phật – được chăm sóc khá tốt vì thu hút nhiều khách hành hương, thì ở đây đại tháp Kesaria suy tàn giữa thinh không quạnh quẽ. Nhiều ý kiến của tín đồ Phật giáo Ấn Độ trách chính quyền Bihar đã bỏ quên di tích quan trọng này.
Giáo sư M.G Prahlad ở Đại học Ngoại ngữ Hyderabad – người giúp tôi viết đề tài thuyết trình cuối khóa “Các vị thần của Vương quốc Chămpa trong thần thoại Ấn Độ” – nhận định rằng: “ Kiến trúc gạch phục vụ tôn giáo của vùng Đông Nam Á cổ đại trong những thế kỷ đầu sau công nguyên đều chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ”. Ông giải thích: Giới tăng lữ mang tôn giáo đến, tất yếu phải mang theo cả tập quán xây dựng đền tháp thờ cúng các vị thần. Vì vậy từ Campuchia, Lào, Myanmar và cả Phù Nam, Chămpa… trong quá khứ đều bị ảnh hưởng sâu sắc kỹ thuật chế tác vật liệu và phương pháp xây dựng từ Ấn Độ là điều không còn tranh luận trong giới chuyên môn. Ông khuyên tôi tìm kiếm thêm các tài liệu từ thư viện, nhưng tiếc rằng khả năng ngoại ngữ cũng như quỹ thời gian không cho phép tôi thực hiện điều đó.
Mới đây, các nhà trùng tu Ý thuộc Đại học Milan, tiến hành trùng tu nhóm tháp G – Mỹ Sơn cho biết đã phát hiện ra chất kết dính để “mài chập” các viên gạch. Kiến trúc sư Landoni Federico tiết lộ: “Chúng tôi vui mừng đã tìm ra chất keo kết dính các viên gạch Chăm lại với nhau. Đó chính là dầu rái, nhựa của một loại cây mọc rất nhiều tại vùng rừng núi phía tây Quảng Nam và được cư dân địa phương sử dụng cho việc xảm thuyền, trét vách làm nhà. Phát hiện này đã giải mã những bí ẩn về kỹ thuật xây tháp của người Chăm cổ và giúp các chuyên gia thực hiện trùng tu các di tích Chăm dễ dàng, thuận lợi hơn”.
Trong thực tế họ đang đi lại trên con đường của ông Lê Văn Chỉnh và nhiều nhà khoa học vật liệu xây dựng đã khai phá, mà không mang lại kết quả nào đáng kể. Ấn Độ giáo và Phật giáo của Vương quốc Chămpa cổ đại tiếp nhận từ giới tăng lữ Ấn Độ, tại sao hơn 100 năm qua, không một nghiên cứu nào thử đi ngược trở lại trên con đường này, nhằm mở một lối đi mới trong nghiên cứu tháp Chăm và những vấn đề bí ẩn của nó? Mong sao “phát hiện” của những nhà trùng tu Ý lần này đưa vào tôn tạo nhóm tháp G Mỹ Sơn, không phải là một thử nghiệm trùng tu như bao lần trước đó.
Ký sự của Nguyễn Trung Hiếu (Lao Động)